Nhiên liệu thay thế là gì? Các công bố khoa học về Nhiên liệu thay thế

Nhiên liệu thay thế là loại nhiên liệu được sử dụng để thay thế các loại nhiên liệu truyền thống như xăng, dầu diesel, than, than đá và khí đốt tự nhiên. Đây là...

Nhiên liệu thay thế là loại nhiên liệu được sử dụng để thay thế các loại nhiên liệu truyền thống như xăng, dầu diesel, than, than đá và khí đốt tự nhiên. Đây là một phương pháp nhằm giảm lượng khí thải gây ô nhiễm môi trường và giảm sự phụ thuộc vào các nguồn nhiên liệu hữu cơ không tái tạo. Ví dụ về nhiên liệu thay thế bao gồm ethanol, biodiesel, hydro, điện mặt trời, điện gió và nhiều hơn nữa.
Dưới đây là một số chi tiết về các loại nhiên liệu thay thế phổ biến:

1. Ethanol: Được sản xuất từ nguồn gốc thực vật như mía đường, cây cỏ và ngũ cốc như ngô và lúa mì. Ethanol thường được sử dụng làm phụ gia cho xăng và làm nhiên liệu tự cháy trong các động cơ đốt trong.

2. Biodiesel: Được sản xuất từ các nguồn gốc thực vật như dầu cây cỏ, dầu đậu nành, dầu cọ và dầu hướng dương. Biodiesel có thể được sử dụng trực tiếp trong động cơ diesel hoặc pha trộn với dầu diesel truyền thống.

3. Hydro: Nhiên liệu hydro sử dụng năng lượng từ nước, thông qua quá trình điện phân nước để tạo ra hydro và ôxy. Hydro được sử dụng làm nhiên liệu trong các ứng dụng xe hơi và máy bay.

4. Điện mặt trời: Sử dụng năng lượng mặt trời để tạo ra điện. Năng lượng mặt trời được chuyển đổi thành điện bằng cách sử dụng các tấm năng lượng mặt trời.

5. Điện gió: Sử dụng sức gió để vận hành các cánh quạt gió và tạo ra điện. Điện gió được coi là một dạng năng lượng tái tạo sạch.

6. Hidrothuyền: Sử dụng năng lượng từ biển và dòng nước chảy để tạo ra điện. Hidrothuyền thường được xây dựng trên sông và bờ biển.

Các loại nhiên liệu thay thế này được phát triển và sử dụng nhằm giảm lượng khí thải gây ô nhiễm môi trường và tìm kiếm các nguồn năng lượng tái tạo và sạch hơn để đáp ứng nhu cầu năng lượng của con người và bảo vệ môi trường.
Dưới đây là thêm một số thông tin chi tiết về các loại nhiên liệu thay thế:

7. Hidrođiện: Sử dụng năng lượng từ chảy dòng sông và đập để tạo ra điện. Các đập hidrođiện lớn được xây dựng để tận dụng sức nước tạo ra từ sự chảy của dòng sông.

8. Khí sinh học: Được sản xuất từ các nguồn năng lượng sinh học như sinh khối thực vật, rác thải hữu cơ và phân bón. Khí sinh học có thể được sử dụng làm nhiên liệu trong các động cơ đốt trong hoặc lò đốt.

9. Công nghệ xử lý khí thải: Các công nghệ này nhằm tách, xử lý và chuyển hóa khí thải từ các nguồn năng lượng truyền thống để biến chúng thành nhiên liệu thay thế. Ví dụ, công nghệ Carbon Capture and Storage (CCS) có thể thu gom và lưu trữ khí CO2 được sinh ra từ các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than.

10. Năng lượng hạt nhân: Năng lượng hạt nhân được tạo ra từ quá trình phân hạch hạt nhân, trong đó nguyên tử uranium hoặc plutonium được chia thành các nguyên tử nhỏ hơn. Năng lượng hạt nhân có thể được sử dụng để sản xuất điện hoặc làm nhiên liệu cho tàu ngầm hạt nhân.

11. Nhiên liệu tương tự dầu: Gồm các loại nhiên liệu như sinh khối lỏng (Lignocellulosic biofuels), dầu cây sinh học (Vegetable oil fuels), và diesel sinh học (Hydro-treated Vegetable Oil). Những loại nhiên liệu này có tính chất tương đương với dầu diesel truyền thống và có thể được sử dụng trực tiếp hoặc pha trộn với dầu diesel.

Các loại nhiên liệu thay thế này đang được nghiên cứu và phát triển nhằm tìm ra các phương pháp tiên tiến hơn để giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và tạo ra nhiều nguồn năng lượng tái tạo và sạch hơn trong tương lai.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhiên liệu thay thế":

Ảnh hưởng của cốt liệu được chế tạo từ tro bay thay thế cát tự nhiên tới một số tính chất của vữa xi măng
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Tập 11 Số 6 - Trang Trang 42 - Trang 48 - 2021
Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của cốt liệu mịn được chế tạo từ tro bay thay thế cát tự nhiên tới tính chất của vữa xi măng. Vữa sử dụng cốt liệu từ tro bay có kích thước từ 4,5 mm đến 0,14 mm cho tính chất tốt hơn vữa sử dụng cốt liệu từ tro bay kích thước nhỏ hơn 2,5 mm và lượng hạt dưới kích thước 0,14 mm lớn hơn 25 %. Hàm lượng cốt liệu từ tro bay thay thế cát tăng thì khối lượng riêng của vữa giảm tương ứng, nhu cầu nước cho vữa tăng nguyên nhân do các hạt cốt liệu từ tro bay có độ rỗng xốp và hút nước lớn. Cường độ nén của vữa ở tuổi 28 ngày tương đương mẫu đối chứng khi sử dụng 40 % hạt cốt liệu từ tro bay thay cát tự nhiên. Kết quả nghiên cứu này là bước đầu chứng minh khả năng ứng dụng sử dụng hạt cốt liệu từ tro bay thay thế cát tự nhiên để chế tạo vữa và bê tông.
#Cốt liệu tro bay #Vữa xi măng #Cát tự nhiên
Thiết kế và chế tạo buồng cháy đẳng tích ứng dụng trong nghiên cứu mô phỏng sự cháy động cơ diesel
Ứng dụng nhiên liệu sinh học trên động cơ đốt trong hiện đang được xem là những hướng phát triển chính trong việc giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch, giảm phát thải ô nhiễm môi trường. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là mô tả quá trình thiết kế, chế tạo buồng cháy đẳng tích nhằm phát triển công cụ nghiên cứu mô phỏng sự cháy trong động cơ diesel. Bằng việc thay đổi điều kiện môi chất và quá trình phun, ta có thể mô phỏng được các ảnh hưởng của áp suất, nhiệt độ, thành phần ô xy (EGR), quá trình hình thành và phát triển tia phun, quá trình hòa trộn lên đặc tính quá trình cháy, đặc tính phát thải của động cơ. Hệ thống buồng cháy bao gồm cụm buồng cháy, hệ thống tạo hỗn hợp, hệ thống khuấy, hệ thống đánh lửa, hệ thống phun nhiên liệu, hệ thống đo và xử lý số liệu. Việc thiết kế, chế tạo thành công buồng cháy là cơ sở để thực hiện các cơ bản về sự cháy, động cơ và nhiên liệu thay thế tại Việt Nam.
#Buồng cháy đẳng tích #mô phỏng sự cháy diesel #thời gian cháy trễ #nhiên liệu thay thế #EGR
Ảnh hưởng của nhiên liệu, tỷ số nén và góc đánh lửa sớm đến quá trình cháy hỗn hợp xăng-ethanol trong động cơ Daewoo
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của thành phần nhiên liệu, các thông số kết cấu, vận hành đến quá trình cháy và tính năng của động cơ đánh lửa cưỡng bức sử dụng xăng pha ethanol. Khi tăng hàm lượng ethanol pha vào xăng từ 10% lên 20%, công chỉ thị chu trình của động cơ giảm nhẹ khoảng 1% nếu giữ nguyên góc đánh lửa sớm. Khi hàm lượng cồn trong xăng tăng thì có thể tăng tỷ số nén động cơ. Với động cơ Daewoo sử dụng xăng E15, khi tăng tỉ số nén từ 9,5 lên 10,3 thì công chỉ thị chu trình tăng khoảng 12%. Góc đánh lửa sớm tối ưu của động cơ với tỷ số nén nguyên thủy 9,5 thay đổi từ 25 đến 32 trong phạm vi tốc độ động cơ từ 1500 vòng/phút đến 4000 vòng/phút. Góc đánh lửa sớm tối ưu giảm khi tăng tỷ số nén động cơ nhưng tăng nhẹ theo hàm lượng cồn trong xăng. Khi tăng hàm lượng cồn trong xăng từ 10% lên 20% thì góc đánh lửa sớm tối ưu tăng khoảng 2-3 ở tốc độ dong cơ 1500 vòng/phút.
#năng lượng tái tại #nhiên liệu thay thế #bộ hòa trộn xăng-ethanol #mô phỏng #Ansys Fluent
Thử nghiệm ngẫu nhiên so sánh liệu pháp hormon thay thế liều thấp và HRT cộng với 1α-OH-vitamin D3 (alfacalcidol) trong điều trị tình trạng mất xương sau mãn kinh Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 24 - Trang 11-15 - 2006
Chúng tôi đã thực hiện một thử nghiệm ngẫu nhiên, đa trung tâm, mờ nhãn kéo dài 2 năm với 76 phụ nữ sau mãn kinh từ 60 tuổi trở lên có mật độ khoáng xương lưng thấp (T-score dưới -1). Nhóm được điều trị bằng liệu pháp hormon thay thế (HRT) nhận liều estrogen phân đoạn thấp (CEE) là 0,31 mg/ngày ± axetat medroxyprogesterone (MPA) 2,5 mg/ngày. Nhóm HRT/D nhận cùng một liều HRT kết hợp với alfacalcidol với liều hàng ngày là 1,0 µg/ngày. Các thay đổi về mật độ khoáng xương lưng được đo bằng phương pháp hấp thụ tia X năng lượng kép (DXA) được theo dõi 6 tháng một lần trong 2 năm. Mật độ khoáng xương lưng của nhóm HRT đã tăng 3,37% [khoảng tin cậy 95% (CI) 1,6%–5,2%], 4,00% (95% CI 1,6%–6,4%), và 2,32% (95% CI −0,7% đến 5,3%) ở các thời điểm 12, 18 và 24 tháng, trong đó giá trị cơ bản được coi là 0%. Mật độ khoáng xương lưng của nhóm HRT/D cho thấy sự gia tăng đáng kể sau 6 tháng. Tỷ lệ gia tăng của nhóm này ở các thời điểm 6, 12, 18 và 24 tháng lần lượt là 6,18% (95% CI 1,3%–6,6%), 6,18% (95% CI 3,9%–8,5%), 7,17% (95% CI 4,3%–10,0%), và 8,75% (95% CI 6,0%–11,5%). Thêm vào đó, có sự khác biệt đáng kể về các thay đổi mật độ khoáng xương lưng giữa hai nhóm ở 24 tháng, cho thấy rằng sự kết hợp giữa HRT và alfacalcidol có hiệu quả hơn so với HRT đơn thuần về tác động mật độ khoáng xương. Nghiên cứu này là thử nghiệm tiềm năng đầu tiên cho thấy tác dụng bổ sung của alfacalcidol lên mật độ khoáng xương lưng ở phụ nữ sau mãn kinh nhận HRT liều thấp. Nghiên cứu gợi ý rằng liệu pháp kết hợp có thể được xem xét như một phương pháp điều trị tiềm năng cho tình trạng mất xương sau mãn kinh.
#HRT #alfacalcidol #mật độ khoáng xương #mãn kinh #điều trị mất xương
Các gen giả như một nguồn thay thế của các phiên mã chống cảm tự nhiên Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 10 - Trang 1-7 - 2010
Các phiên mã chống cảm tự nhiên (NAT) xảy ra tự nhiên là các RNA không mã hóa có thể điều chỉnh hoạt động của các phiên mã cảm xúc mà chúng liên kết do tính bổ sung. Những NAT không nằm trong gen mà chúng điều chỉnh (trans-NAT) có khả năng tiến hóa tốt hơn so với cis-NAT, điều này thể hiện rõ ràng khi sợi cảm xúc của cis-NAT là một phần của gen mã hóa protein. Tuy nhiên, việc hình thành một trans-NAT yêu cầu một vùng tương đối lớn có tính bổ sung với gen mà nó điều chỉnh. Sự hình thành gen giả có thể là một cơ chế tiến hóa phát sinh trans-NAT đối với gen tổ tiên. Ví dụ, điều này có thể xảy ra nếu gen tổ tiên được điều chỉnh bởi một cis-NAT, mà được sao chép thành một trans-NAT trong gen giả. Để hỗ trợ điều này, chúng tôi đã xác định các gen giả của con người có trans-NAT đối với gen tổ tiên trong sợi chống cảm của nó bằng cách phân tích cơ sở dữ liệu của các thẻ trình tự biểu hiện (EST). Chúng tôi thấy rằng các đột biến xuất hiện trong những trans-NAT này sau khi hình thành gen giả không cho thấy phân bố phẳng mà sẽ được kỳ vọng ở một phiên mã không chức năng. Thay vào đó, chúng tôi tìm thấy sự tương đồng cao hơn với gen tổ tiên trong một vùng gần đầu 3' của trans-NAT. Kết quả của chúng tôi không ngụ ý quan hệ chức năng của trans-NAT phát sinh từ các gen giả đối với các gen tổ tiên tương ứng của chúng, nhưng bổ sung bằng chứng cho điều đó và nhấn mạnh tầm quan trọng của các cơ chế nhân đôi vật chất di truyền trong việc hình thành các RNA không mã hóa. Chúng tôi cũng đưa ra một giải thích hợp lý cho các phiên mã lớn có thể được tìm thấy trong sợi chống cảm của một số gen giả.
#Phiên mã chống cảm tự nhiên #gen giả #RNA không mã hóa #cơ chế tiến hóa #phiên mã #cơ sở dữ liệu thẻ trình tự biểu hiện
Mô hình liều lượng phổi chuột sinh ngẫu nhiên cho các sản phẩm con radon hít vào: một sự thay thế cho phổi người trong đánh giá rủi ro ung thư phổi Dịch bởi AI
Biophysik - Tập 54 - Trang 225-241 - 2015
Chuột được sử dụng thường xuyên trong các nghiên cứu hít để mô phỏng sự tiếp xúc của con người. Mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là phát triển một mô hình liều lượng sinh ngẫu nhiên cho các sản phẩm con radon hít vào trong phổi chuột, nhằm dự đoán phân bố liều lượng phế quản và so sánh chúng với các phân bố liều tương ứng trong phổi người. Sự khác biệt đáng kể nhất giữa phổi người và phổi chuột là cấu trúc phân nhánh của cây phế quản, điều này tương đối đối xứng ở phổi người nhưng là đơn chân ở phổi chuột. Đặc điểm của aerosol sản phẩm con radon được sử dụng trong nghiên cứu hiện tại bao gồm các điều kiện đặc trưng cho các nghiên cứu hít chuột của PNNL và COGEMA, cũng như điều kiện tiếp xúc trong nhà của thợ mỏ urani và con người. Nghiên cứu cho thấy rằng tùy thuộc vào điều kiện tiếp xúc và giả định mô hình, liều lượng phế quản trung bình trong phổi chuột dao động từ 5,4 đến 7,3 mGy WLM−1. Nếu được vẽ như một hàm của thế hệ đường thở, thì phân bố liều lượng phế quản cho thấy một cực đại đáng kể ở các đường thở lớn. Tuy nhiên, nếu được vẽ như một hàm của đường kính đường thở, thì liều lượng phế quản phân bố đồng đều hơn trong toàn bộ cây phế quản. So sánh giữa sự tiếp xúc của con người và chuột cho thấy liều lượng phế quản ở chuột cao hơn một chút so với liều lượng phế quản ở người với hệ số khoảng 1,3, trong khi liều lượng phổi, tính trung bình cho các vùng phế quản (BB), phế quản nhỏ (bb) và mô kẽ phế nang (AI), cao hơn khoảng 1,6 lần. Điều này ủng hộ quan điểm hiện tại rằng phổi chuột thực sự là một sự thay thế thích hợp cho phổi người trong trường hợp ung thư phổi do radon. Hơn nữa, đường kính đường thở dường như là một tham số hình thái học thích hợp hơn so với các thế hệ đường thở để liên kết liều lượng phế quản với ung thư phế quản.
#liều lượng sinh ngẫu nhiên #chuột #radon #ung thư phổi #mô hình hít vào #phế quản
Nhiên liệu thay thế từ các chất thải sinh học rừng cho ô tô chở khách - một đánh giá theo điều kiện khuôn khổ Đức Dịch bởi AI
Energy, Sustainability and Society - Tập 4 - Trang 1-13 - 2014
Do khối lượng có sẵn, các chất thải sinh học là một nguồn tài nguyên hứa hẹn cho nhiên liệu tái tạo cho ô tô chở khách nhằm giảm phát thải khí nhà kính (GHG). Trong nghiên cứu này, chúng tôi so sánh ba loại nhiên liệu từ chất thải rừng trong điều kiện khung pháp lý của Đức: điện sinh học, khí tự nhiên thay thế (SNG) và diesel Fischer-Tropsch (FT). Các nhiên liệu từ chất thải rừng được so sánh về hiệu suất kỹ thuật (được xác định ở đây là 'pkm mỗi kg sinh khối'), chi phí và tác động môi trường với trọng tâm là phát thải GHG. Chúng tôi đã xem xét các điều kiện lái xe thực tế và các phân loại ô tô tương ứng cũng như các kịch bản thâm nhập thị trường cho ô tô chạy điện và nhiên liệu khí. Kết quả của chúng tôi cho thấy hiệu suất kỹ thuật của điện sinh học là cao, trong khi các kết quả kinh tế và môi trường phụ thuộc mạnh mẽ vào kích thước xe và giả định về thâm nhập thị trường. Hơn nữa, việc định nghĩa rõ ràng mục tiêu chính của việc giới thiệu các nhiên liệu từ chất thải rừng là cần thiết. Nếu mục tiêu là giảm phát thải GHG với chi phí thấp nhất, SNG (và khí tự nhiên) ở những chiếc xe lớn là lựa chọn ưu tiên. Đối với việc giảm GHG ở mức cao nhất với mức tiêu thụ chất thải rừng thấp nhất, điện sinh học trong các loại ô tô đi lại nhỏ được tìm thấy là một giải pháp tốt. Điều này cũng đúng với điểm tác động môi trường tổng hợp ReCiPe Total. Việc bao gồm các mẫu di chuyển và định nghĩa rõ ràng mục tiêu khi so sánh các nhiên liệu sinh học là rất quan trọng. Tại Đức, điện sinh học, SNG và diesel FT có thể giảm phát thải GHG với chi phí giảm khoảng 100 €/t CO2-Eq nếu được sử dụng đúng cách.
#khí nhà kính #chất thải sinh học #nhiên liệu tái tạo #điện sinh học #khí tự nhiên thay thế #diesel Fischer-Tropsch #hiệu suất kỹ thuật
Sự thay đổi trong tính chất của nhiên liệu diesel trong quá trình lưu trữ Dịch bởi AI
Allerton Press - Tập 41 - Trang 188-192 - 2007
Các tiêu chuẩn chất lượng diesel của Châu Âu cho rằng các đặc tính của nó cần phải tương ứng với thiết kế đặc biệt của động cơ diesel và với chu trình hoạt động của chúng sau khi lưu trữ nhiên liệu lâu dài. Nghiên cứu này đã phân tích sự thay đổi trong tính chất của nhiên liệu diesel theo thời gian dưới các điều kiện khác nhau của việc lưu trữ các thùng chứa nhiên liệu. Việc theo dõi kéo dài ba năm đã cho thấy chỉ có điểm chớp cháy của nhiên liệu diesel là trải qua những thay đổi đáng kể, trở nên thấp hơn nhiệt độ tối thiểu giới hạn. Việc thêm một chất phụ gia thích hợp nâng cao điểm chớp cháy lên tới mức yêu cầu, từ đó làm cho nhiên liệu đủ tiêu chuẩn để phục vụ lại.
#nhiên liệu diesel #tính chất của nhiên liệu #tiêu chuẩn chất lượng #lưu trữ nhiên liệu #điểm chớp cháy
Mucopolysaccharidosis VI: Trải Nghiệm Từ Italia Dịch bởi AI
Zeitschrift für Kinderheilkunde - Tập 168 - Trang 1203-1206 - 2009
Bài báo hiện tại mô tả lịch sử tự nhiên và quản lý bệnh mucopolysaccharidosis VI (MPS VI) ở tất cả bệnh nhân hiện đang được chẩn đoán mắc bệnh tại Italia. Chín bệnh nhân (từ 5,5 đến 14,4 tuổi) đã được đưa vào xem xét dữ liệu vào tháng 3 năm 2008. Dữ liệu về thai kỳ và sơ sinh đều bình thường cho tất cả bệnh nhân. Tuổi trung vị tại thời điểm chẩn đoán là 1,9 năm. Trong quá trình bệnh, tất cả bệnh nhân đều phát triển các đặc điểm khuôn mặt thô, chiều cao thấp, bệnh van tim, vấn đề về mắt, vấn đề về cơ xương khớp, gan lách to và các bất thường về thần kinh. Tất cả bệnh nhân đều nhận liệu pháp thay thế enzyme rhASB (ERT) và cho thấy sự cải thiện hoặc ổn định trong các biểu hiện lâm sàng sau khi bắt đầu điều trị. Những cải thiện thường được báo cáo nhất là tăng cường khả năng vận động của khớp và giảm kích thước gan lách. Không có vấn đề an toàn nào liên quan đến ERT được báo cáo. Tóm lại, bệnh nhân tại Italia mắc MPS VI được chẩn đoán sớm trong đời. Tất cả bệnh nhân đều có quyền tiếp cận ERT và có vẻ như được hưởng lợi từ liệu pháp này.
#Mucopolysaccharidosis VI #lịch sử tự nhiên #trị liệu thay thế enzyme #Italia #bệnh lý di truyền
Kế hoạch phân tích thống kê cho một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên pha III thực tiễn kiểm tra can thiệp vật lý trị liệu thay đổi hành vi để tăng cường hoạt động thể chất sau khi phẫu thuật thay khớp hông và khớp gối: thử nghiệm PEP-TALK Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 22 - Trang 1-9 - 2021
Thay khớp hông toàn phần (THR) và thay khớp gối toàn phần (TKR) là hai thủ thuật chỉnh hình thành công cao, giúp giảm đau cho người bị thoái hóa khớp. Chứng cứ trước đây cho thấy rằng hoạt động thể chất, tốt nhất, vẫn không thay đổi từ trước đến sau phẫu thuật, và trong một số trường hợp có thể giảm sút. Thử nghiệm PEP-TALK đánh giá tác động của một can thiệp thay đổi hành vi nhóm đối với hoạt động thể chất sau khi thực hiện THR hoặc TKR. PEP-TALK là một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát, pha III, thực tiễn, đa trung tâm, song song, phân nhánh, nhằm điều tra hiệu quả của việc chăm sóc tiêu chuẩn cộng với liệu pháp thay đổi hành vi so với việc chỉ chăm sóc tiêu chuẩn sau khi THR hoặc TKR lần đầu. Kết quả chính là Điểm hoạt động UCLA sau 12 tháng kể từ khi ngẫu nhiên, sẽ được phân tích bằng mô hình tác động hỗn hợp tuyến tính. Các kết quả thứ yếu được đo lường sau 6 tháng và 12 tháng kể từ khi ngẫu nhiên bao gồm Điểm hoạt động UCLA, Thang chức năng chi dưới, Điểm Oxford cho khớp hông/khớp gối, Thang điểm đánh giá đau, Thang điểm tự thực hiện tổng quát, Thang điểm Tampa cho sự lo âu về chuyển động, Thang điểm lo âu và trầm cảm bệnh viện, chỉ số EuroQoL EQ-5D-5L và EQ-VAS, cùng với các biến chứng hoặc sự kiện bất lợi. Chi tiết đầy đủ về các phương pháp phân tích dự kiến cho các kết quả chính và thứ yếu, cũng như các phân tích độ nhạy dự kiến sẽ được thực hiện do đại dịch COVID-19, đã được mô tả ở đây. Quy trình nghiên cứu PEP-TALK đã được công bố trước đó. Bài báo này cung cấp các chi tiết về các phân tích thống kê dự kiến cho thử nghiệm PEP-TALK. Mục tiêu là giảm thiểu rủi ro thiên lệch báo cáo kết quả và nâng cao tính minh bạch trong báo cáo. Cơ sở dữ liệu thử nghiệm ngẫu nhiên tiêu chuẩn quốc tế, Số ISRCTN: 29770908. Đăng ký vào tháng 10 năm 2018.
Tổng số: 18   
  • 1
  • 2